Tin lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến (Mathiơ 24:14).

Kính chào Quí tôi con Chúa khắp nơi xa gần đang truy cập vào mạng lưới HTTL Phan Thiết. HTTL Phan Thiết có đường link sau: https://httlptbt.blogspot.com; https://youtube.com/httlptbt, Blog xem tốt nhất Máy Tính và Di Động với trình duyệt Cốc Cốc

Chủ Đề Cho Lễ Kỷ Niệm Chúa Giáng Sinh - Năm 2013 (30/07/2013)

       Trích từ Biểu quyết 2 - Biên Bản số 23/2013/BB-TLH


       CHỦ ĐỀ:


ƠN PHƯỚC CHO TRẦN GIAN



       KINH THÁNH: Lu-ca 2:14


"Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao,
Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!"

SỰ VUI MỪNG - MSNC Huỳnh Minh Tuấn (28/07/2013)

VIDEO

SỰ VUI MỪNG - MSNC Huỳnh Minh Tuấn
(Quản Nhiệm Chi Hội Tân Nghĩa - Huyện Hàm Tân)
(Thời gian 35:04 - Dung lượng: 180 MB - Quay phim: Phước Hạnh)

Đăng tin: Phước Hạnh.

Khai Giảng Thánh Kinh Căn Bản Tỉnh Bình Thuận Tại La Gi (24/07-03/08/2013)

       HTTLVN.ORG - Lúc 8 giờ 30 ngày 24/07/2013, Ban Đại diện tỉnh Bình Thuận tổ chức Lễ Khai giảng Thánh Kinh Căn Bản Khoá II năm thứ 4 tại nhà thờ Tin Lành La Gi.
       Tham dự chương trình: Mục sư Lê Khắc Hoá - Trưởng Ban Đại diện tỉnh Bình Thuận, Mục sư Nguyễn Tờn - Trưởng Ban Đại diện tỉnh Đồng Nai, các Mục sư, Truyền đạo và 175 học viên.
       Năm nay các học viên sẽ được học 5 môn với các giáo viên phụ trách:
       1. Thánh Kinh Phong Tục - MS Nguyễn Tờn
       2. Cơ Đốc Giáo Dục - MSNC Nguyễn Đình Tín
       3. Lai Thế Học - MS Phan Văn Cử
       4. Các Hệ Phái Và Tà Giáo - MS Bùi Phụng
       5. Hôn Nhân & Gia Đình - MS Lê Hoàng Phúc
     MS Lê Khắc Hoá đọc diễn văn và cầu nguyện khai mạc khóa học. MS Nguyễn Tờn dùng Thi Thiên 119:11 khích lệ các học viên hăng say học Lời Chúa. MS Nguyễn Văn To cầu nguyện đáp ứng Lời Chúa.
      Sau khi Msnc Hồ Đắc Trí phổ biến nội quy khoá học Lễ khai giảng kết thúc và môn học thứ nhất được bắt đầu lúc 10 giờ. Lớp học sẽ kéo dài đến ngày 03/08/2013.
     Cùng ngày, lúc 13 giờ 30 các tôi tớ Chúa trong tỉnh có chương trình hiệp nguyện định kỳ (hằng tháng) tại phòng Cơ Đốc Giáo Dục của Hội Thánh.

TTV. Bình Thuận
MSNC. Phan Chu


       Những hình ảnh ghi nhận:


Quang cảnh

Quang cảnh

Mục sư Lê Khắc Hóa, cầu nguyện cho Khóa học

Ban hát khóa sinh

Mục sư Nguyễn Tờn, giảng Lời Chúa

Trong giờ hiệp nguyện của các Mục sư, Truyền đạo

Bản Tin Mục Vụ 36 - Sống Thánh Giữa Đời (27/07/2013)

       Sống Thánh Giữa Đời không chỉ là ước vọng, nhưng điều đó phải trở thành thực nghiệm trên đời sống của mỗi Cơ Đốc nhân. Vì Lời của Đức Chúa Trời phán: “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (I Phi-e-rơ 1:16), xin Chúa giúp chúng ta - là những “thánh đồ” sống theo điều Chúa muốn để bày tỏ sự thánh khiết của Ngài trong chính đời sống của mình.
       Bản Tin Mục Vụ số 36 có chủ đề Sống Thánh Giữa Đời sẽ chuyển tải đến quý đọc giả những bài Dưỡng linh, Nghiên cứu, Truyện ngắn cùng những bài viết chuyên đề… tất cả đều hướng đến và giúp mỗi tôi con Chúa sống Thánh theo ý muốn của Ngài. Ngoài ra, quý vị sẽ tiếp tục học và đọc những bài đăng định kỳ về Lập Kế Hoạch Cho Cơ Đốc Giáo Dục và bài viết Mẹ Chồng Tôi - kể về cuộc đời của phu nhân Mục sư Đoàn Văn Miêng.
       Còn nhiều bài viết dành cho thanh thiếu nhi, giúp mỗi lứa tuổi trắc nghiệm lại những kiến thức Kinh Thánh về đời sống thánh khiết của những nhân vật trong Kinh Thánh từ đó có những tấm gương rất hữu ích cho cuộc sống ngày nay… kính mời quý vị đón xem.
       Quý vị có thể liên hệ tại Chi Hội của mình hoặc tại các văn phòng Cơ Đốc Giáo Dục sau đây:

       Văn phòng Cơ Đốc Giáo Dục
       155, Trần Hưng Đạo, Q1. TP.HCM
       ĐT: 08.66.59.45.88
       Email: uybancdgd@gmail.com
       Phòng sách Cơ Đốc Giáo Dục Tổng Liên Hội (Cơ sở 2 TLH)
       633, Đường 3/2 Quận 10. TP.HCM
       ĐT: 08.3957.5253 - 3957.5254 - 3957.5255
       Phòng Phân Phối Kinh Thánh và Văn Phẩm Cơ Đốc
       270 Lê Duẩn, Tp Đà Nẵng
       ĐT: 0511.3752.757- 098.513.1254
       Liên hệ đăng ký Văn phẩm Cơ Đốc:
       ĐT: 0918.218.152
       Email: timothynd@yahoo.com
       __________________





       BBT

Nước Sạch Cho Làng 34 (21/07/2013)

       HTTLVN.ORG - Nhân ngày Nước Sạch Thế giới - 22/03, ngày 21/03/2013, đoàn YTXH-TLH do BS. Trần văn Thanh đã cùng với Quản nhiệm và Ban Chấp sự HT Ma Lâm đến thăm làng 34, thuộc xã Thuận Hòa, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Làng có 190 gia đình với 720 nhân khẩu thuộc các sắc dân K’ho, Raglay, Nộp, Bahna, Chăm,… Cho đến nay đã có 28 gia đình tín hữu thờ phượng Chúa tại HTTL Ma Lâm, Bình Thuận.

Vị trí làng 34
(Nguồn: Việt bản đồ)

       Cuộc sống đồng bào ở đây còn vô cùng khó khăn về mọi mặt, nhất là nước. Làng không có nước sạch và rất thiếu nước sinh hoạt hàng ngày. Năm nào cũng hơn 7 tháng nắng và không tới 5 tháng mưa. Khô hạn đến mức trong làng không có bóng cây cao. Dân làng cả ngày cực nhọc ngoài nương rẫy, chiều về nhà thiếu nước sinh hoạt. Sự khốn khó mọi bề đã làm cho hầu hết bà con già đi trước tuổi rất nhiều. Mọi nhà đều có người đau ốm, yếu sức. Đào giếng thì gặp đá tảng. Nhiều giếng đã khoan sâu đến 80m đá mà vẫn không có nước. Dân làng chỉ còn cách đi lấy nước ở suối cách làng đến 3 km về dùng, hay dựa vào những lu nước để dành vào mùa mưa. Trước đây, tổ chức Unicef có giúp 1 cái giếng và xây hồ rất lớn nhưng đến mùa khô vẫn không còn nước.

Làng 34 khô nước

Nước quí hiếm

Tín hữu trữ nước mưa

       UB YTXH-TLH đã rất đắn đo khi quyết định hỗ trợ Hội Thánh địa phương khoan một giếng vì dự kiến kinh phí có thể lên đến 40-50 triệu đồng, quá nhiều so với kinh phí của dự án cho một giếng nước thông thường, và phải khoan sâu 60-80 mét, phần lớn xuyên qua đá bàn. Nhưng xét thấy cả làng rất đông người mà không có nguồn nước sử dụng, và UB YTXH đã gửi mẫu nước trong đá đi xét nghiệm thấy rất tốt nên Hội Thánh vẫn quyết định tiến hành khoan một giếng cho cộng đồng ở đây. Cũng phải mất gần 2 tháng mới tìm được thợ khoan chịu đến làm. Trong khi khoan, HT cũng phải làm nhiều cam kết với chính quyền địa phương mới được tiếp tục thực hiện.

Khoan giếng

Khoan giếng qua đá

       Tạ ơn Chúa, mới khoan đến 51 mét thì nước đã phun trào và nước thật dồi dào, máy bơm cả ngày lẫn đêm không hề cạn. Số tiền bỏ ra để khoan giếng, mua máy bơm và bồn chứa nước tất cả chỉ có 37 triệu, dưới mức dự tính của UB YTXH. Điều vui mừng nhất là dù nước lấy chỉ ở độ sâu vừa phải nhưng không có mùi vị bất thường nào. Khi thăm hỏi bà con trong làng cảm nhận về chất lượng nước, ai nấy đều hớn hở cho biết: “nước rất ngon”, “nước rất ngọt”, “nước ngọt như nước trời mưa”, v.v… Những ngày qua, các thành viên trong HT Ma Lâm rất vui khi đến thăm làng, nhất là khi thấy từng đoàn người đến lấy nước sạch ngay giữa làng mang về với nét mặt tươi vui, hớn hở, và vui hơn, khi thấy mối quan hệ giữa cán bộ chính quyền địa phương với Hội Thánh được thêm thắt chặt.

Mừng vui vì nước dồi dào

Nếm thử nước

Lấy nước

       Điều vui mừng nhất, qua công việc thiện nguyện này đã có 4 tín hữu rời xa nhà Chúa nhiều năm qua được tỉnh thức quay trở lại sinh hoạt với Hội Thánh, 8 người đến tiếp đón Chúa vào lòng và nhiều người hứa với tín hữu trong làng sẽ tiếp nhận Ngài.
       Con cái Chúa tại địa phương chỉ biết “Ha-lê-lu-gia! Cảm tạ Chúa” và gửi lời cảm ơn sâu xa nhất đến các ân nhân đã cảm thông nỗi khổ của bà con trong làng mà giúp đỡ hoàn thành mỹ mãn một giếng khoan.

Cái mừng trong khắc khổ

Cả nhà vui mừng

Nguồn nước ngay giữa làng

Nguồn nước ngay giữa làng


(Nguồn: HT Ma Lâm & UBYTXH-TLH, 21/07/2013)

Hội Thánh Phan Rí 80 Năm Hình Thành Và Phát Triển (19/07/2013)

      HTTLVN.ORG - Ngày 19/07/2013 tại nhà thờ Tin Lành Phan Rí - Bình Thuận đã diễn ra Lễ Cảm tạ 80 thành lập Hội Thánh.
       Tham dự chương trình có:
       - Diễn giả: Mục sư Phan Vĩnh Cự - Phó Hội trưởng I,
       - Trưởng Ban Đại diện: Mục sư Lê Khắc Hoá,
       - Chủ lễ: Mục sư Phan Tài - Quản nhiệm Hội Thánh Phan Rí,
       - Các tôi tớ Chúa và thân nhân các tiền nhiệm,
       - Khoảng 600 người bao gồm: Mục sư, Truyền đạo và tín hữu,
      Sau khi Mục sư chủ lễ đọc diễn văn khai mạc, MS Lê Khắc Hoá cầu nguyện xin Chúa tể trị và ban phước cho chương trình lễ. Xen lẫn giữa các bài Thánh ca do các ca đoàn tôn vinh Chúa, Thư ký Hội Thánh trình bày quá trình hình thành Hội Thánh Phan Rí.
       MS Phan Vĩnh Cự dùng Lời Chúa ở Thi Thiên 103 để chia sẻ theo chủ đề “Ơn Chúa Ghi Lòng”.
       Đại diện Hội Thánh đã tỏ lòng tri ân đến những tôi tớ Chúa có công khó với Hội Thánh và các tiền nhiệm. Được biết, Tin Lành đến Phan Rí năm 1928, đến năm 1933 Hội Thánh được thành lập.
      Chương trình buổi chiều được tiếp tục với các ban hát tôn vinh Chúa và Hội Thánh được nghe Lời Chúa qua Mục sư diễn giả. Chương trình cũng có lễ Công bố chức danh Mục sư Nhiệm chức cho 9 Truyền đạo mới được công nhận.
       MS Lê Khắc Hóa sơ lược quá trình hầu việc Chúa của các vị Tân MSNC, nguyên là Truyền đạo tình nguyện suốt 20 năm qua, từ những tháng ngày khó khăn, hầu việc Chúa âm thầm trong nước mắt. Giờ đây đã được cả Giáo hội lẫn Chính quyền công nhận, thuận lợi cho sự hầu việc Chúa.
       Buổi tối, Hội Thánh cũng đã tổ chức chương trình Thánh nhạc truyền giảng cho người dân tại địa phương. Với sự phối hợp cùng Ban Truyền giảng tỉnh Bình Thuận và sự góp phần của các ca sĩ Cơ Đốc đến từ Sài Gòn.
     Thời tiết không được thuận lợi, mưa to suốt gần 3 giờ liền trước khi khai mạc nên không thể thực hiện ngoài trời theo như dự kiến, phải thực hiện trong nhà thờ.
       Dù vậy, các thân hữu tham dự rất đông, lúc đầu các tín hữu phải nhường chỗ trong nhà thờ cho các thân hữu, nhưng sau đó các thân hữu cũng phải ngồi bên ngoài nhà vòm vì nhà thờ không còn sức chứa. Bất chấp mưa gió, những người ở xa được Hội Thánh thuê xe đưa đến nhà thờ còn những người ở gần, băng trong mưa để tham dự.
      Cảm tạ Chúa, sau lời giảng luận và kêu gọi của MS Phan Vĩnh Cự đã có 28 người bằng lòng đầu phục Chúa. Đây được xem như kết quả khởi đầu của HT Phan Rí lúc bước vào tuổi 81.

TTV. MSNC Phan Chu


       Những hình ảnh ghi nhận:


Quang cảnh bên trong và bên ngoài

Quang cảnh bên trong và bên ngoài

Quang cảnh bên trong và bên ngoài

Ban hát thờ phượng

Các ban hát tôn vinh Chúa

Các ban hát tôn vinh Chúa

Các ban hát tôn vinh Chúa

Mục sư Phan Vĩnh Cự giảng Lời Chúa

Tặng quà các tiền nhiệm

Tặng quà Quản nhiệm & Ban Chấp sự đương nhiệm

9 Mục sư Nhiệm chức và các phu nhân

Những thân hữu tiếp nhận Chúa


A/ VIDEO


Kỷ Niệm 80 Năm Thành Lập HT Phan Rí P1
(Thời gian 40:02 - Dung lượng: 279 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Kỷ Niệm 80 Năm Thành Lập HT Phan Rí P2
(Thời gian 40:02 - Dung lượng: 279 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Kỷ Niệm 80 Năm Thành Lập HT Phan Rí P3
(Thời gian 40:02 - Dung lượng: 279 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Kỷ Niệm 80 Năm Thành Lập HT Phan Rí P4
(Thời gian 30:58 - Dung lượng: 215 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


B/ VIDEO


Bồi Linh Và Công Bố Chức Danh 09 MSNC P1
(Thời gian 34:51 - Dung lượng: 242 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Bồi Linh Và Công Bố Chức Danh 09 MSNC P2
(Thời gian 34:51 - Dung lượng: 243 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Bồi Linh Và Công Bố Chức Danh 09 MSNC P3
(Thời gian 34:51 - Dung lượng: 243 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Bồi Linh Và Công Bố Chức Danh 09 MSNC P4
(Thời gian 22:30 - Dung lượng: 156 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


C/ VIDEO


Ơn Trời - Truyền Giảng HT Phan Rí P1
(Thời gian 30:52 - Dung lượng: 214 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Ơn Trời - Truyền Giảng HT Phan Rí P2
(Thời gian 30:52 - Dung lượng: 215 MB - Quay phim: Đào Hiếu)


Ơn Trời - Truyền Giảng HT Phan Rí P3
(Thời gian 20:50 - Dung lượng: 145 MB - Quay phim: Đào Hiếu)

Đăng tin: Phước Hạnh.

Cơ Đốc Nhân Với Trách Nhiệm Xã Hội - MS Hồ Nguyên Kha (21/07/2013)

         Dẫn nhập.
       Dân số Việt Nam hiện nay có gần 90 triệu người, phần đông dân chúng phải đối diện với nhiều vấn đề xã hội bức thiết trong cuộc sống. Từ các vấn đề an sinh xã hội như tình trạng nghèo đói (theo chuẩn nghèo của Chính phủ, 14,2% dân số Việt Nam đang sống trong tình trạng nghèo đói,[1] nếu tính theo chuẩn của Liên Hiệp quốc, con số đó khoảng 30%),[2] môi trường sống bị hủy hoại, chất lượng cuộc sống còn đứng ở vị trí thấp (chỉ số HDI của Việt Nam năm 2010 được xếp hạng 113/169 quốc gia),[3] chất lượng giáo dục và y tế chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, cho đến những vấn đề mang tính đạo đức xã hội như nạo phá thai, buôn bán người, tình trạng mại dâm, hôn nhân đồng giới, sự bất công trong xã hội và pháp luật, v.v… Những nan đề xã hội đó có thể bắt gặp ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trong mọi giai đoạn lịch sử thế giới, chứ không phải của riêng một quốc gia nào hay trong một thời điểm cụ thể nào. Việt Nam chỉ là một nơi cụ thể và gần gũi để chúng ta có thể cùng nhau nhìn thấy thực trạng xã hội của thế giới hiện nay.
       Mặc dù Cơ Đốc nhân được vinh dự là công dân của thiên quốc, nhưng xét về phương diện xã hội, Cơ Đốc nhân cũng vẫn là công dân của một quốc gia, là thành viên của một xã hội nào đó. Một khi đã là một nhân tố trong xã hội, là công dân của một quốc gia, công dân đó phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội - nghĩa là ít nữa, Cơ Đốc nhân phải nhận lấy những trách nhiệm xã hội như bất kỳ một công dân nào khác trong xã hội. Hơn nữa Cơ Đốc nhân còn được kêu gọi để làm ánh sáng cho thế gian, và “sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia-cơ 1:27). Cho nên tinh thần trách nhiệm của Cơ Đốc nhân đối với xã hội mình đang sinh sống càng phải được đề cao và chủ động thực thi.
       Khi nói đến trách nhiệm cá nhân của mỗi Cơ Đốc nhân, chúng ta không thể bỏ qua vai trò và vị trí của Hội Thánh trong việc hình thành nên quan điểm của cá nhân những tín hữu đối với trách nhiệm xã hội cũng như những vấn đề khác liên quan đến niềm tin và việc thực hành niềm tin. Vì vậy, khi nói đến trách nhiệm xã hội của Cơ Đốc nhân cũng hàm ý nói đến trách nhiệm xã hội của Hội Thánh, và ngược lại vì có sự quy chiếu hai chiều.
       Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã xác định đường hướng hoạt động của mình trong Hiến chương, ấy là: “sống Phúc Âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ Quốc và dân tộc”.[4] Điều đó cho thấy, bên cạnh trách nhiệm thiêng liêng đối với Đức Chúa Trời và Hội Thánh Ngài, trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm xã hội cũng là một phần trong quan điểm sống đạo của tín hữu Tin Lành.
       Tuy nhiên vai trò của Cơ Đốc nhân Việt Nam đối với các vấn đề xã hội nói chung còn rất lợt lạt, hầu như chưa tạo được dấu ấn hay tiếng nói khả dĩ nào đối với các vấn đề xã hội đang được quan tâm và cần phải giải quyết. Có thể nhận thấy, tình trạng đó xãy ra bởi sự hình thành quan điểm về trách nhiệm xã hội của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam dựa trên những yếu tố sau:
        1. Yếu tố thần học.
       Thần học của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc thần học của Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp. Hội Truyền giáo chủ trương chính sách “tự lập” cách nhất quán, theo đó, những trường học, bệnh viện, phòng khám hay những công tác xã hội nói chung… không phải là vấn đề chính cần phải quan tâm.[5] Vì mục tiêu chính yếu của Hội truyền giáo Phước âm Liên hiệp là rao giảng Tin Lành và thiết lập Hội Thánh bản xứ trên căn bản tự lập, tự trị, và tự truyền bá.[6] Hội Truyền giáo đã theo đuổi chính sách nhất quán nầy từ khi được hình thành vào năm 1883 khi chủ trương không thiết lập một hệ phái. Mãi cho đến năm 1974, Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp mới tuyên bố chính thức trở thành một hệ phái,[7] đồng thời liên kết với tổ chức CAMA Services (Compassion and Mercy Associates) để hoạt động trong cách lãnh vực xã hội như cứu trợ và phát triển cộng đồng.[8]
       Cũng giống như tinh thần truyền giáo của các môn đồ trong Hội Thánh đầu tiên, các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp được thúc đẩy để rao giảng Tin Lành với tinh thần Chúa sẽ trở lại trong nay mai, và sứ điệp Tin Lành của họ cũng giống như một phần sứ điệp Tin Lành của Phi-e-rơ “ta chẳng có vàng bạc chi hết” (Công-vụ 3:6). Vì vậy, Hội Thánh cùng với các Mục sư, Truyền đạo, và tín hữu đều được kêu gọi và thúc đẩy để hoàn toàn chú tâm vào việc nhanh chóng hoàn tất sứ mạng môn đồ hóa muôn dân.
       Sách công vụ các sứ đồ cho chúng ta thấy thái độ sống và tinh thần rao giảng Tin Lành của Hội Thánh đầu tiên rất cấp bách. Các sứ đồ và môn đồ ra đi rao giảng Tin Lành ở khắp mọi nơi, từ châu Á, châu Phi, đến châu Âu, các tín hữu bán hết gia sản mình để dâng hiến cho công việc Chúa và hiệp nhau mỗi ngày để thờ phượng Chúa… Có lẽ phần đông trong số họ tin rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay trong thời của họ, trước khi Giăng có thể qua đời (Giăng 21:20-23).
       Sự nhấn mạnh về việc Chúa Giê-xu mau chóng trở lại để tiếp rước Cơ Đốc nhân bước vào một thời đại thiên hy niên phước hạnh cũng là một yếu tố liên hệ đến thái độ của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh trước những trách nhiệm xã hội. Cơ Đốc nhân thường được dạy rằng, chúng ta kiên nhẫn và nhịn nhục chịu khổ, vì không lâu nữa sẽ được Chúa tiếp rước cùng với những phần thưởng xứng đáng cho những người trung thành (II Cô-rinh-tô 4:17-18; Gia-cơ 1:12; Khải huyền 2:10b; 22:12). Yanina Talmon, giáo sư Đại học Jerusalem đã ví von về niềm tin của một số phong trào cấp tiến về thiên hy niên, như là điều không bao lâu nữa sẽ xảy ra, và họ “sống trong sự chờ đợi căng thẳng và chuẩn bị cho điều đó”, trong khi các Cơ Đốc nhân đang mong đợi sẽ nhanh chóng bước vào một thế giới “được thay đổi một cách tuyệt đối, hoàn toàn và dứt khoát”.[9]
       Những năm trước 1975, trong bối cảnh đất nước bị tang thương bởi chiến tranh và đói nghèo, các phước lành trong Ma-thi-ơ chương 5 được giải thích theo nghĩa đen đã trở nên nguồn động lực cho các Cơ Đốc nhân, họ xem sự hoạn nạn, bắt bớ, đau đớn, nghèo khó là phước hạnh và sẵn sàng chấp nhận nó. Vậy thì cũng chẳng có lý do gì để tìm cách thay đổi tình trạng xã hội đang tồn tại, trong khi tình trạng đó sẽ được thay đổi trong nay mai khi Chúa trở lại và Cơ Đốc nhân được bước vào thời kỳ thiên hy niên.
       Ngoài ra, sự giảng dạy Kinh Thánh một cách không cân đối khi nhấn mạnh giáo lý “được cứu bởi đức tin” (Rô-ma 1:17), trong cái nhìn tương phản với các tôn giáo khác chủ trương làm việc công đức để được cứu, đã làm cho Cơ Đốc nhân không nhận thấy trách nhiệm của mình trước các nan đề xã hội. Trong khi đó, sứ điệp của Gia-cơ: “đức tin không sanh ra việc làm thì tự mình nó chết” (Gia-cơ 2:17) ít được nhấn mạnh, vì e ngại Cơ Đốc nhân - nhất là những tân tín hữu sẽ hiểu sai vấn đề, cố gắng làm việc lành để được cứu rỗi giống như chủ trương của các tôn giáo khác. Lần hồi, Cơ Đốc nhân xem đó là trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức hay đoàn thể khác. Hội Thánh và cá nhân tín hữu không nên quan tâm đến những vấn đề thế tục, mà chỉ nên chú tâm vào các vấn đề đức tin và thiêng liêng mà thôi.
       Một sự kiện diễn ra vào năm 1957 tại Sài Gòn, một giáo sĩ đã công khai bày tỏ quan điểm của mình rằng: Chúa Giê-xu không hề mở trường học, bệnh viện hay cô nhi viện, Ngài chỉ lo giảng Tin Lành mà thôi, để phản biện chủ trương Hội Thánh nên dự phần để thực thi những trách nhiệm xã hội.[10] Nhưng trên thực tế, Chúa Giê-xu không “chỉ giảng Tin Lành mà thôi”, nhưng Ngài còn phản ứng thích hợp với các vấn đề xã hội: chữa lành những người bệnh, bênh vực những người bị ruồng bỏ, dạy dỗ mọi người biết yêu thương và bày tỏ tình thương đối với người khác v.v… (Ma-thi-ơ 22:39; 7:12 Giăng 13:35). Giống như điều Gia-cơ đã dạy rằng, đức tin của Cơ Đốc nhân phải được minh chứng bởi những hành động yêu thương cụ thể:
       “Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết. Hoặc có kẻ nói: Ngươi có đức tin, còn ta có việc làm. Hãy chỉ cho ta đức tin của ngươi không có việc làm, rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức tin bởi việc làm của ta” (Gia-cơ 2:14-18).
       Mục sư Lê Văn Thái thuật lại những nỗ lực của ông cùng các cộng sự trong việc thành lập Cô nhi viện, một trong những cơ quan xã hội đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam như sau: “chúng tôi cố gắng bằng mọi cách nhằm gây một ý thức mới trong vòng tín hữu - vì như trên đã nói - phần đông tín đồ lúc bấy giờ có những quan điểm rất thiển cận nếu không bảo là sai lầm, luôn luôn khước từ hoặc chống trả những đề nghị hợp lý, thực tiễn - chỉ chăm tìm và thực hiện những sinh hoạt tâm linh có tính cách thiêng liêng”.[11] Thực ra, thái độ đó vẫn tiếp tục bám chặt vào trong tư tưởng của nhiều Cơ Đốc nhân Việt Nam cho đến ngày nay.
        2. Yếu tố lịch sử.
       Bên cạnh sự ảnh hưởng của tư tưởng thần học, yếu tố lịch sử cũng góp phần tạo nên quan điểm của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh trước trách nhiệm xã hội của mình. Phần lớn thời gian hiện hữu của Hội Thánh Tin Lành trên mảnh đất Việt Nam là những năm tháng chiến tranh (1911-1975), cùng với đó là những vấn đề xã hội gai góc: tệ nạn xã hội, tội phạm, nghèo đói, mồ côi, bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, chính trị, mâu thuẫn giai cấp, v.v… cho nên có thể nhìn thấy trách nhiệm xã hội của mỗi Cơ Đốc nhân và Hội Thánh là rất lớn.
       Giai đoạn trước 1954, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vẫn chỉ là một đoàn thể tôn giáo nhỏ bé trong xã hội Việt Nam, mà học giả Đào Duy Anh đã bình luận là “đơn bạc lắm”, với khoảng 10.000 tín hữu ở cả ba miền (vào năm 1938).[12] Do đó vai trò của Hội Thánh đối với trách nhiệm xã hội hoàn toàn không có.
       Khi nạn đói Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc Việt Nam khiến 2 triệu người chết trong vòng 7 tháng (từ tháng 10/1944 đến tháng 05/1945), Hội Thánh Tin Lành Việt Nam khi đó vẫn còn non trẻ, không đủ khả năng để đóng một vai trò nào trong cuộc khủng hoảng của đất nước. Địa hạt miền Trung và miền Nam chỉ có thể giúp đỡ phần nào cho ngân sách của địa hạt miền Bắc duy trì sự hoạt động,[13] cũng như lạc quyên giúp đỡ những nhu yếu phẩm cho tín hữu miền Bắc thông qua chuyến đi của Mục sư Lê Văn Thái trong thời điểm đó.[14]
       Từ năm 1955, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam với khoảng 14.000 tín đồ trong 157 Hội Thánh ở miền Nam,[15] “tiếng nói” để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. Với việc mở ra các cô nhi viện, phòng khám bệnh, bệnh viện phung, trường học, trường dạy nghề, các nhóm công tác xã hội, các ủy ban… được điều hành và phục vụ bởi những Cơ Đốc nhân, Hội Thánh đã góp phần trong việc giải quyết những vấn đề xã hội của đất nước.[16]
       Công tác nầy trở nên nổi bật hơn tại khu vực các dân tộc thiểu số sinh sống, nhất là các chương trình đặt chữ và dạy chữ cho các dân tộc bán khai và sơ khai - di sản ấy vẫn còn giá trị đến ngày nay và đang được tiếp tục phát triển cho hoàn thiện hơn. Ngoài ra, những thay đổi về cơ cấu xã hội, vệ sinh môi trường, việc loại bỏ những hủ tục và những hành động man rợ cũng là kết quả từ đức tin Cơ Đốc.[17]
       Sau năm 1975, vì hoàn cảnh lịch sử, mọi hoạt động của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam bị gián đoạn và co cụm, các ủy ban trong đó có Ủy ban Cứu tế xã hội cùng với những cơ sở y tế xã hội và trường học của Hội Thánh hoặc bị đóng cửa, hoặc bị trưng dụng. Hội Thánh hầu như không còn có thể làm gì để thực thi trách nhiệm xã hội của mình trong hoàn cảnh đó, có chăng chỉ là sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa vòng các tín hữu và các Hội Thánh.
       Từ năm 2001 đến nay, sau khi được công nhận tư cách pháp nhân, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã bắt đầu khởi động lại các hoạt động xã hội với nhiều dự án khác nhau bởi nội lực của Hội Thánh cũng như sự hợp tác của các tổ chức phi chính phủ ở trong và ngoài nước. Điều đáng mừng đó là việc thực thi trách nhiệm xã hội có sự chuyển mình rõ rệt theo thời gian, ban đầu chỉ dựa vào Ủy ban Y tế xã hội Tổng liên hội, nhưng lần hồi các Ban Đại diện tỉnh/thành và các chi hội địa phương, thậm chí các điểm nhóm cũng bắt đầu dự phần vào trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của mình,[18] không chỉ giới hạn tại địa phương, vùng miền, hay quốc nội mà còn vươn ra hải ngoại.[19]
       Từ năm 2005 trở đi, sự nhìn nhận và việc thực thi trách nhiệm xã hội của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) có sự tiến bộ rõ rệt, với nhiều dự án khác nhau cho nhiều đối tượng và thành phần khác nhau trong xã hội, đặc biệt chương trình phát triển cộng đồng có ý nghĩa rất thiết thực và có giá trị lâu dài trong nỗ lực biến đổi và chinh phục cộng đồng cho Chúa Giê-xu.[20]
       Có thể nhận thấy, tiếng nói của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đối với những vấn đề xã hội trong từng giai đoạn lịch sử có sự khác nhau bởi các yếu tố khác nhau (như năng lực, bối cảnh chính trị, v.v…) mà chúng ta sẽ bàn luận trong những phần sau.
        3. Yếu tố năng lực.
       Phải nhìn nhận rằng, phần đông Cơ Đốc nhân Việt Nam vẫn là những người có mức thu nhập thấp (hay không muốn nói là người nghèo) so với mức sống trung bình của người dân Việt Nam. Thành phần giàu có trong Hội Thánh không nhiều, nếu có thì mức độ dâng hiến hỗ trợ cho những nỗ lực thực thi trách nhiệm xã hội cũng rất ít ỏi. Phần nhiều các Hội Thánh tại các tỉnh miền Trung và Tây nguyên vẫn còn ở trong tình trạng chưa tự lập về tài chánh, trong khi các Hội Thánh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long dầu được xem là tự lập, nhưng sự tự lập đó vẫn còn rất bấp bênh, cuối cùng thì tài lực của Hội Thánh tập trung vào một số Hội Thánh ở các đô thị lớn. Điều đó cũng cho thấy một khiếm khuyết trong chính sách tự lập của Hội Thánh là tính cục bộ cao, làm cho sự phát triển của các Hội Thánh địa phương không được đồng đều (nơi dư, nơi thiếu, và những chỗ có dư cũng không muốn chia sẻ, hoặc chia sẻ rất ít cho những chỗ khác, vì mọi người đều muốn tập trung lo cho Hội Thánh địa phương của mình), đồng thời nguồn lực của giáo hội không được tập trung, dẫn đến việc Hội Thánh không đủ năng lực để đảm đương những trách nhiệm xã hội.
       “Tâm lý nghèo thiếu” gắn chặt vào triết lý sống của mỗi Cơ Đốc nhân và Hội Thánh,[21] người ta muốn được nhận, được hỗ trợ, được giúp đỡ, được cho không hơn là phải tự dâng hiến và đóng góp để thực hiện một mục vụ nào đó trong Hội Thánh, huống chi là những công tác hướng ngoại để thực thi trách nhiệm xã hội của cá nhân mỗi Cơ Đốc nhân cũng như Hội Thánh.
       Trước năm 1975, nguồn lực cung ứng cho những cơ sở y tế, giáo dục cũng như các dự án xã hội hoạt động, phần lớn dựa vào những nguồn trợ giúp từ các tổ chức, các giáo phái và các nhóm Hội Thánh khác như World Vision, Mennonite Central Committee, World Council of Churches, Church World Service, Lutheran World Federation, East Asian Council of Churches, World Relief Commisson, v.v…[22] Ngoại trừ một vài nỗ lực của một số Cơ Đốc nhân để thành lập tổ chức Thanh niên Cơ Đốc xã hội, hoạt động trong các lãnh vực an sinh xã hội, cải thiện môi trường sống, tổ chức dạy nghề, lập các trường học và nhà giữ trẻ, cũng như các cơ sở y tế… với nguồn lực có được từ sự đóng góp của các thành viên và tổ chức các cơ sở kinh doanh và dịch vụ. Phong trào nầy phát triển và hoạt động kết quả tại các đô thị lớn như Đà Nẵng, Quảng Nam, Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ.[23]
       Mặc dầu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam luôn tự hào về sự tự trị, tự lập của mình, nhất là sau năm 1975 khi Hội Thánh không còn bất kỳ nguồn trợ cấp nào từ hải ngoại, nhưng sự tự lập đó chỉ mới ở một mức độ đủ cung ứng cho sự tự trị và tự truyền bá của Hội Thánh, chứ chưa đủ sức để cung ứng nguồn lực cho Hội Thánh tự thực thi những trách nhiệm xã hội của mình. Phần lớn ngân quỹ trong Hội Thánh được phân bổ cho việc điều hành, cung lương, xây dựng, kế đến là truyền giáo và Cơ Đốc giáo dục, hỗ trợ các ban ngành, v.v… Công tác xã hội được xem là ưu tiên cuối cùng mà Hội Thánh sẽ thực hiện nếu như ngân quỹ dư thừa, hoặc có nguồn hỗ trợ đặc biệt nào đó từ các cá nhân hay tổ chức khác, và thường chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong ngân sách của Hội Thánh.[24]
        4. Yếu tố chính trị.
       Nói đến Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, là phải nói đến chủ trương “không xen vào chính trị” đã được xác quyết từ khi Hội Thánh được hình thành đến nay. Trong luận án tiến sĩ của Mục sư Lê Hoàng Phu, ông đã có những giải luận xác đáng với những ví dụ chứng minh cách cụ thể về quan điểm nầy của Hội Thánh.[25] Tuy nhiên trong một giai đoạn lịch sử, Hội Thánh đã định nghĩa hoặc hiểu không chính xác về chủ trương ấy, khi xem việc “không xen vào chính trị” đồng nghĩa với việc không tham gia vào bất kỳ hoạt động nào của chính quyền và xã hội với tư cách công dân và với tư cách một tổ chức xã hội.
       Bên cạnh đó, môi trường chính trị tại Việt Nam sau năm 1975 khá “nhạy cảm” khi chính quyền Việt Nam thống nhất đã chủ trương đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Một trong những trích dẫn thường xuyên được “phổ cập” cho dân chúng được trích trong tiểu luận của Karl Marx: “Ảo tưởng tôn giáo và nhiệm vụ của lịch sử”, đó là:
       “Tôn giáo là tính hiện thực ảo tưởng của bản chất con người, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu tranh chống một thế giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo.
       Sự khổ đau mang tính tôn giáo đồng thời vừa là biểu hiện của khổ đau trong hiện thực, vừa là sự chống đối lại khổ đau ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những tình cảnh không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.[26]
       Tinh thần đó cùng với các chính sách cải cách có liên quan đến các vấn đề tôn giáo đã gieo rắc mối nghi ngờ cho dân chúng về tôn giáo nói chung và Tin Lành nói riêng, cũng như tạo ra sự đề kháng và e dè từ phía các Cơ Đốc nhân và Hội Thánh. Bởi lẽ các Cơ Đốc nhân và Hội Thánh đã phải trải qua những kinh nghiệm đau thương, mất mát khi nhìn thấy những công tác xã hội của mình đang thực hiện bị đình chỉ, những cơ sở đang hoạt động bị đóng cửa hay tịch thu… do đó, tâm lý e dè và lo sợ “vết thương cũ tái phát” luôn hiện hữu. Bên cạnh đó, sự nghi kỵ về việc lợi dụng tôn giáo để làm chính trị, cũng như đánh đồng tôn giáo với chính trị vẫn còn tồn tại trong ý niệm và tâm thức của nhiều người.[27]
       Vì vậy, một khi Cơ Đốc nhân hay Hội Thánh muốn thực thi trách nhiệm xã hội của mình cách công khai, trong một số trường hợp sẽ bị ngăn trở, trong trường hợp khác có thể sẽ gặp không ít trở ngại, hoặc thuận lợi hơn thì phải chịu sự giám sát rất chặt chẽ, dưới nhãn quan “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” - vốn được hiểu một cách chính thống theo hướng tiêu cực,[28] và Tin Lành là “do Mỹ dựng lên” để làm bình phong cho các nhóm phản kháng đòi dân chủ và tự trị.[29]
       Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng nghi kỵ đã lần hồi có những chuyển biến tích cực, với thái độ tiếp cận có phần cởi mở và hợp tác hơn cả về phía Hội Thánh, người dân cũng như chính quyền trong việc cùng nhau thực thi trách nhiệm xã hội. Vai trò của Hội Thánh và các tín hữu Tin Lành trong những hoạt đồng từ thiện nhân đạo cũng được nhìn nhận và tạo điều kiện hoạt động thuận lợi hơn.[30]
        5. Yếu tố văn hóa - xã hội.
       Yếu tố cuối cùng mà người viết muốn đề cập đến đó là yếu tố văn hóa - xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn hóa mang đậm bản sắc của các tôn giáo và truyền thống Á Đông, nên sự xung đột giữa văn hóa Tin Lành và văn hóa dân gian là điều không thể tránh khỏi.[31] Những tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, cùng với các tôn giáo bản địa như Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa hảo, cũng như vô số những hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ thành hoàng, thánh mẫu, các anh hùng dân tộc, và các hình thức tín ngưỡng đa thần, phiếm thần của các dân tộc thiểu số ở vùng cao, v.v… đều trái ngược với niềm tin vào Đức Chúa Trời chân thần duy nhất của Cơ Đốc giáo.[32]
       Trong những năm gần đây, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, người ta cũng thường nhắc đến khái niệm “không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc”.[33] Cùng với sự đề cao các yếu tố văn hóa và văn minh cổ xưa của nhân loại, các cơ quan nghiên cứu và quản lý văn hóa Việt Nam đang chủ trương việc phục dựng các lễ hội truyền thống, phát huy những di sản văn hóa (bao gồm những di sản vật thể và phi vật thể trong đó có những hủ tục của một số dân tộc và địa phương), tôn vinh những giá trị văn hóa gắn liền với tín ngưỡng dân gian…[34]
       Một số bài viết nghiên cứu về Tin Lành tại Việt Nam đã phản ánh rõ quan điểm và sự nhìn nhận của xã hội, của những nhà làm công tác quản lý và nghiên cứu tôn giáo, cũng như của những người phi Cơ Đốc về đạo Tin Lành. Theo đó, cách sống đạo của Cơ Đốc nhân sẽ tạo ra những xung đột trong cộng đồng, và Tin Lành được xem như là một hiện tượng tôn giáo cần phải hạn chế phát triển, đồng thời cũng là nguồn gốc cho những xung đột văn hóa, xã hội, và chính trị sẽ xảy ra.[35] Những mâu thuẫn có thể phát sinh ở mức độ hẹp ngay trong gia đình giữa những Cơ Đốc nhân và những thành viên khác, cho đến mức độ rộng hơn ở từng thôn, xóm, bản, làng và thậm chí là tỉnh/thành hay khu vực như đã từng xảy ra.
       Bên cạnh đó, nhiều Cơ Đốc nhân luôn mang cái nhìn chủ quan “chỉ có mình là chân lý” khi tiếp xúc với những người theo các tôn giáo khác, dẫn đến sự nghi kỵ, kỳ thị và xa lánh trong mối liên hệ cá nhân cũng như xã hội.[36] Đồng thời với sự đóng khung của Hội Thánh trong các mục vụ chỉ giới hạn trong Hội Thánh hoặc nhiều lắm là liên Hội Thánh, chứ chưa tạo được sự tương tác với cộng đồng, ngay cả trong công tác cứu trợ - Hội Thánh vẫn chỉ tập trung vào những thuộc viên của mình chứ chưa có sự quan tâm thỏa đáng cho những người khác, nếu có thì cũng rất hạn chế. Điều đó dẫn đến tình trạng khép kín trong mối liên hệ cá nhân giữa Cơ Đốc nhân với những người không cùng niềm tin với mình, cũng như giữa Hội Thánh với cộng đồng chung quanh. Và càng ngày, sự ngăn cách đó càng bị khoét sâu thêm thay vì phải lấp đầy nhanh chóng.
       Trong hai nhiệm kỳ vừa qua (2005-2013), Ban Trị sự Tổng liên hội đã thành lập Ủy ban Văn hóa giáo dục để nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực văn hóa - xã hội để tìm một hướng đi, hay xa hơn là một chính sách cho sự phát triển của Hội Thánh, cũng như cùng với Ủy ban Y tế - Xã hội thực thi những trách nhiệm xã hội khả dĩ. Nhưng có thể nói, vì văn hóa - xã hội là một vấn đề rất rộng lớn với nhiều quan điểm khác nhau và không ít những tranh cãi, cho nên đến nay những cố gắng đó vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi.
        Thay lời kết.
       Người viết bài nầy cho rằng, mỗi cá nhân tín hữu cũng như Hội Thánh là một thực thể của xã hội, vì vậy trách nhiệm xã hội của Hội Thánh hay mỗi Cơ Đốc nhân là trách nhiệm hiển nhiên, không thể bàn cãi - vì đó trước hết là trách nhiệm của một thành viên đang sống trong một xã hội hay một quốc gia, hoặc trong phạm vi nhỏ hẹp hơn là một thành viên đang sống trong gia đình. Vấn đề là, Hội Thánh và mỗi Cơ Đốc nhân sẽ làm những gì và làm như thế nào để thể hiện trách nhiệm xã hội của mình, và đồng thời không mâu thuẫn với niềm tin và chân lý Thánh Kinh.
       Bàn về vai trò của phụ nữ Cơ Đốc trong Hội Thánh đầu tiên, cụ thể là những góa phụ trong Hội Thánh được sứ đồ Phao-lô đề cập đến trong I Ti-mô-thê 5:10, “phải là người được tiếng khen vì việc phước đức mình, như đã nuôi con cái, đãi đằng khách lạ, rửa chân thánh đồ, cứu giúp kẻ khốn nạn, và làm đủ các việc phước đức”, đã lưu ý rằng “tất cả những công việc đó thực ra là bổn phận hằng ngày của bà với tư cách là một Cơ Đốc nhân bình thường”.[37]
       Có thể kể ra những công tác khác nhau để Cơ Đốc nhân và Hội Thánh có thể làm để thực thi trách nhiệm xã hội của mình ở trần gian nầy. Tuy nhiên, ở mức độ tối thiểu, điều Cơ Đốc nhân Việt Nam có thể làm là gì?
       Theo tiến sĩ Trương Văn Thiên Tư, “Trải qua bao thế hệ, người Việt truyền thống đã xây dựng cho mình một cách sống theo tình yêu và công lý của Trời, hay Đạo Trời, đó là chuẩn mực cho đức hạnh của họ. Niềm tin mạnh mẽ vào Trời giúp cho người Việt truyền thống sống công chính và nhân lành trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào”.[38] Tuy nhiên, giá trị đạo đức và lối sống của xã hội Việt Nam ngày nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Các học giả, các nhà giáo dục nhìn nhận xã hội Việt Nam hiện nay như sau: “Đã đến lúc chúng ta phải rung chuông báo động về sự bất ổ trong gia đình, về tình trạng đạo đức xã hội, luân thường đạo lý đang bị vi phạm và xuống cấp nghiêm trọng”.[39] Tình trạng nạo phá thai tràn lan, nguy hiểm nhất là rơi vào giới trẻ bởi tình trạng quan hệ luyến ái trước hôn nhân; tình trạng quan hệ đồng tính luyến ái trở nên công khai và đang được kêu gọi để công nhận và bảo vệ; tình trạng mại dâm và buôn bán người tràn lan; tình trạng bất bình đẳng giới vẫn tiếp tục tồn tại dù xã hội đã có nhiều cải cách và có bước tiến dài trong nỗ lực xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng đó; sự xuống cấp của các giá trị đạo đức xã hội khiến cho tội lỗi gia tăng, v.v…
       Vì vậy, sự đóng góp của Cơ Đốc nhân vào nền đạo đức xã hội trước sự suy thoái nghiêm trọng về các vấn đề đạo đức trong xã hội hiện nay là việc làm cần thiết. Vì suy cho cùng, mục tiêu cuối cùng của đạo đức là hạnh phúc, là sự tăng trưởng, sự phát triển toàn diện của tất cả mọi người và dẫn đến một xã hội tốt đẹp, mà đối với Cơ Đốc nhân thì khuôn mẫu đạo đức cho sự phát triển toàn diện chính là Chúa Giê-xu.[40] Và cho dù Hội Thánh không phải là một hội về đạo đức, nhưng “đạo đức là một phần trong giáo lý” của Hội Thánh,[41] cho nên Hội Thánh không thể bỏ qua vấn đề đạo đức, bởi cớ:
       “Mọi Cơ Đốc nhân đều bị chất vấn gắt gao trước lý tưởng đạo đức: “các ngươi là muối của đất… là sự sáng của thế gian”. Vì vậy, đứng trước một xã hội đang suy thoái, Hội Thánh có một cái gì đó để sống, để nói lên, và trước hết hết có một mẫu gương để nêu ra. Là một thành trì được xây trên cao, và được Thánh Linh tình yêu soi chiếu, Hội Thánh có bổn phận đem lại ánh sáng cho trái đất nầy. Như thế, Hội Thánh có một nền đạo đức và có một thầy dạy đạo đức chứ không phải là một Hội Thánh lên giọng dạy đạo đức”.[42]
       Kinh Thánh dạy Cơ Đốc nhân phải chu toàn các bổn phận ngay trong thế gian, tương ứng với chức phận trong cuộc sống dành cho mỗi người trong xã hội (I Cô-rinh-tô 7:17-24; Ê-phê-sô 6:1-9). Điều đó có nghĩa là nếu mỗi Cơ Đốc nhân có nghề nghiệp hoặc làm việc cách chính đáng trong đời thường đều có ý nghĩa và giá trị, đáng trân trọng.[43] Đó chính là hoạt động đạo đức cao nhất mà con người có thể đảm nhiệm ở đời nầy.[44]
       Cuối cùng, ở một góc nhìn khác trong bối cảnh Việt Nam, sự đóng góp của Cơ Đốc nhân vào nền đạo đức xã hội dễ dàng được chấp nhận nhất. Cơ Đốc nhân được giáo huấn tuân giữ điều răn và những mạng lệnh của Chúa, sống theo cách của Chúa, mà Phao-lô khẳng định rằng, “yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: không có luật pháp nào cấm các sự đó” (Ga-la-ti 5:23).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
       Ban Trị sự Tổng liên hội. Khai trình công việc Chúa 2001-2005. Hồ Chí Minh: Văn phòng Tổng liên hội, 2005.
       Ban Trị sự Tổng liên hội. Khai trình công việc Chúa 2005- 2009. Hồ Chí Minh: Văn phòng Tổng liên hội, 2009.
       Barclay, William. Ethics in a Permissive Society. New York: Harper & Row Publishers Inc., 1971.
  CMA. Historical Timeline. http://www.cmalliance.org/resources/archives/timeline (truy cập ngày 1/6/2013).
       Đào, Duy Anh. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương. Đồng Tháp: Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1998.
       Đông, Phong. Về nguồn Văn hóa Cổ truyền Việt Nam. Cà Mau: Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1998.
       Faivre, Alexander. Giáo dân trong những thế kỷ đầu của giáo hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010.
       Hồ, Nguyên Kha. Xây dựng một Hội Thánh tự lực tự cường về phương diện tài chánh. Tham luận đóng góp cho Diễn đàn thần học Việt Nam 2013.
       Hồ, Tấn Sáng. “Đạo Tin Lành và ảnh hưởng của nó đối với một số lĩnh vực xã hội ở Tây Nguyên”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2008): 30-35.
       Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Hiến Chương (2001).
       Lê, Hoàng Phu. Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1911-1965). Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010.
       Lê, Văn Thái. Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ. Sài Gòn: Cơ quan xuất bản Tin Lành.
       Max, Karl. “Ảo tưởng tôn giáo và nhiệm vụ của lịch sử”. Những vấn đề Nhân học Tôn giáo. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006.
       Mã, Phúc Thanh Tươi. “Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin Lành và đạo đức truyền thống”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 12 (2011): 53-60.
     Nguyên, Ngọc. “Nghĩ thêm về bản sắc”. Văn hóa thời Hội nhập. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2006.
       Nguyễn, Hữu Ái & Nguyễn Mai Phương. Phong tục cổ truyền Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
      Nguyễn, Khắc Đức. “Xu hướng biến động của đạo Tin Lành trong đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (2010): 42-47.
       Nguyễn, Xuân Hùng. “Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin Lành đối với văn hoá truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 (2000): 45-54.
      Nguyễn, Văn Nam. “Ảnh hưởng của đạo Tin Lành với thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2008): 36-42.
       Rey-Mermet, Théodule. Một lối nhìn mới về luân lý. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông, 2009.
       Talmon, Yonina. “Phong trào thiên niên: Quan hệ giữa tôn giáo và thay đổi xã hội”. Những vấn đề nhân học tôn giáo. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006.
       Tổng cục thống kê. Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê, 2011.
      Trần, Thị Kim Oanh. Mấy vấn đề giảng dạy môn Tôn giáo học trong tiến trình hội nhập. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội, n.d.
       Trương, Văn Thiên Tư. Mệnh Trời - Hướng đến một thần học sứ mạng Việt Nam. California: Luận án Tiến sĩ trình Đại học Berkeley, 2009.
       UNDP Việt Nam. Việt Nam: Một số điển hình phát triển bền vững. Hà Nội: UNDP, 2011.
       UNDP Việt Nam. Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người - Báo cáo Quốc gia về Phát triển Con người năm 2011. Hà Nội: UNDP, 2011.
       Walle, Bernie A. Van De. Trái tim của Phúc âm. Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.
       Weber, Max. Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản. Hà Nội: Nhà xuất bản Trí Thức, 2008.

----------------------------------------------------------------
      [1] Tổng cục thống kê, Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010 (Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê, 2011), 21.
      [2] UNDP Việt Nam, Việt Nam: Một số điển hình phát triển bền vững (Hà Nội: UNDP, 2011), 21.
      [3] UNDP Việt Nam, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người - Báo cáo Quốc gia về Phát triển Con người năm 2011 (Hà Nội: UNDP, 2011), 14-15.
       [4] Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hiến Chương, Chương I, Điều 5.
      [5] Lê Hoàng Phu, Lịch sử Hội Thánh Tin lành Việt Nam (1911-1965) (Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010), 93.
        [6] Ibid., 90-94.
       [7] Bernie A. Van De Walle, Trái tim của Phúc âm (Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011), 19-26.
[8] CMA, Historical Timeline. http://www.cmalliance.org/resources/archives/timeline (truy cập ngày 1/6/2013).
      [9] Yonina Talmon, “Phong trào thiên niên: Quan hệ giữa tôn giáo và thay đổi xã hội”, Những vấn đề nhân học tôn giáo (Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006), 416.
      [10] Lê Văn Thái, Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ (Sài Gòn: Cơ quan xuất bản Tin lành, 1971), 238.
       [11] Ibid., 229.
      [12] Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương (Đồng Tháp: Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1998), 259.
       [13] Lê Hoàng Phu, op.cit., 229-230.
       [14] Lê Văn Thái, op.cit., 156-159.
       [15] Lê Hoàng Phu, op.cit., 358-363
       [16] Ibid., 366-367.
       [17] Ibid., 367-369.
       [18] Ban Trị sự Tổng liên hội, Khai trình công việc Chúa 2001-2005 (Hồ Chí Minh: Văn phòng Tổng liên hội, 2005), 16-19.
       [19] Ngày 26/12/2004, một cơn sóng thần đã xảy ra tại Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka, Somali, và các nước Đông Phi… làm thiệt mạng gần 300.000 người. Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã phát đi một thông báo khẩn đến toàn thể Hội Thánh để cầu nguyện và “đóng góp trực tiếp với các cơ quan cứu trợ của Chính quyền địa phương”. (Văn thư số 1489/2005/TLH-TB ngày 17/1/2005). Trong những năm gần đây, còn có thêm những đoàn Khám chữa bệnh lưu động được tổ chức để hoạt động tại miền Bắc cũng như Lào và Campuchia.
      [20] Ban Trị sự Tổng liên hội, Khai trình công việc Chúa 2005- 2009 (Hồ Chí Minh: Văn phòng Tổng liên hội, 2009), 58-63.
       [21] Hồ Nguyên Kha, Xây dựng một Hội Thánh tự lực tự cường về phương diện tài chánh (Tham luận đóng góp cho Diễn đàn thần học Việt Nam 2013), 2.
       [22] Lê Hoàng Phu, op.cit., 278-279; Lê Văn Thái, op.cit., 228-242.
       [23] Lê Hoàng Phu, op.cit., 279-280.
       [24] Ban Trị sự Tổng liên hội, Khai trình công việc Chúa 2005- 2009, 76.
       [25] Lê Hoàng Phu, op.cit., 365-367.
      [26] Karl Max, “Ảo tưởng tôn giáo và nhiệm vụ của lịch sử”, Những vấn đề Nhân học Tôn giáo, op.cit., 31-32.
       [27] Hồ Tấn Sáng, “Đạo Tin Lành và ảnh hưởng của nó đối với một số lĩnh vực xã hội ở Tây Nguyên”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2008): 30-35; Nguyễn Văn Nam, “Ảnh hưởng của đạo Tin Lành với thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2008): 36-42.
       [28] Trần Thị Kim Oanh, Mấy vấn đề giảng dạy môn Tôn giáo học trong tiến trình hội nhập (Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội, n.d.), 8.
       [29] Hồ Tấn Sáng, op.cit., 31-32.
       [30] Nguyễn Khắc Đức, “Xu hướng biến động của đạo Tin Lành trong đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (2010): 42-47.
      [31] Nguyễn Xuân Hùng, “Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin Lành đối với văn hoá truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 (2000): 45-54.
       [32] Đào Duy Anh, op.cit., 258.
       [33] Nguyên Ngọc, “Nghĩ thêm về bản sắc”, Văn hóa thời Hội nhập (Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ, 2006), 78.
      [34] Đông Phong, Về nguồn Văn hóa Cổ truyền Việt Nam (Cà Mau: Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1998), 4-8.
       [35] Hồ Tấn Sáng, loc.cit.; Nguyễn Văn Nam, loc.cit.
       [36] Đào Duy Anh, loc.cit.
      [37] Alexander Faivre, Giáo dân trong những thế kỷ đầu của giáo hội (Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010), 41.
       [38] Trương Văn Thiên Tư, Mệnh Trời - Hướng đến một thần học sứ mạng Việt Nam (California: Luận án Tiến sĩ trình Đại học Berkeley, 2009), 145.
       [39] Nguyễn Hữu Ái & Nguyễn Mai Phương, Phong tục cổ truyền Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003), 32.
      [40] Théodule Rey-Mermet, Một lối nhìn mới về luân lý (Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông, 2009), 30.
       [41] William Barclay, Ethics in a Permissive Society (New York: Harper Row Publishers Inc., 1971), 13.
       [42] Théodule Rey-Mermet, op.cit., 33.
       [43] Mã Phúc Thanh Tươi, “Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin Lành và đạo đức truyền thống”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 12 (2011): 57.
       [44] Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản (Hà Nội: Nhà xuất bản Trí Thức, 2008), 131-145.

       Mục sư Hồ Nguyên Kha

Giới Thiệu Sách - Hy Vọng (20/07/2013)

       Sách Hy Vọng có gì?
       - Lòng tự trọng
       - Sự thành công
       - Tình yêu
       - Giới tính
       - Gia đình
       - Sức khỏe và sự nghiện ngập
       - Tình bạn
       - Công chính
       - Hy vọng trong tương lai
       - Bước kế tiếp
       Sách Hy Vọng giúp bạn những lời khuyên, hướng dẫn đúng để đem đến cho bạn niềm vui trong cuộc sống hiện tại và định hướng cho tương lai. Có cả phần Kinh Thánh song ngữ để bạn đọc và học.
       Muốn nhận sách miễn phí xin liên lạc với những phòng sách Cơ Đốc Giáo Dục sau đây:

       Văn phòng Cơ Đốc Giáo Dục
       155, Trần Hưng Đạo, Q1. TP.HCM
       ĐT: 08.66.59.45.88
       Email: uybancdgd@gmail.com
       Phòng sách Cơ Đốc Giáo Dục Tổng Liên Hội (Cơ sở 2 TLH)
       633, Đường 3/2 Quận 10. TP.HCM
       ĐT: 08.3957.5253 - 3957.5254 - 3957.5255
       Phòng Phân Phối Kinh Thánh và Văn Phẩm Cơ Đốc
       270 Lê Duẩn, Tp Đà Nẵng
       ĐT: 0511.3752.757- 098.513.1254
       Liên hệ đăng ký Văn phẩm Cơ Đốc:
       ĐT: 0918.218.152
       Email: timothynd@yahoo.com
       __________________


Giới Thiệu Sách - Sự Thành Công Của Người Sống Ngay Thật (18/07/2013)

        Giới thiệu sách mới!
        - Bạn Là doanh nhân Cơ Đốc, bạn đã kinh doanh thế nào?
        - Bạn có khó xử không?
         Hãy đọc cuốn:
       SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI SỐNG NGAY THẬT, tác giả Lee dong Won.
        Một người khởi nghiệp bằng việc làm chủ một cửa hiệu quần áo nhỏ mang tên England, với vốn kiến thức và phương châm kinh doanh phải rõ ràng và không được trốn thuế, cửa hàng của ông đã phát triển thành một tập đoàn lớn. Bởi việc kinh doanh ngay thật ngay cả khi tình hình kinh tế khó khăn. Ông đã từng khẳng định quan niệm kinh doanh của mình là trở thành “muối của đất và ánh sáng của thế gian” đồng thời coi trọng đạo đức nghề nghiệp và sự ngay thật của một người cơ đốc. ông đã nói rằng “dù có thất bại đi chăng nữa cũng phải đi bằng con đường chính đáng, bằng đường thẳng. Doanh nghiệp phải ngay thật trong quá trình tạo ra lợi nhuận”…
        Hãy tìm ngay cuốn SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI SỐNG NGAY THẬT để đọc và tìm được câu giải đáp cho chính mình.
        Sách khổ 14.5 x 20.5 giá 15.000đ có phổ biến tại:


       Văn phòng Cơ Đốc Giáo Dục
       155, Trần Hưng Đạo, Q1. TP.HCM
       ĐT: 08.66.59.45.88
       Email: uybancdgd@gmail.com
       Phòng sách Cơ Đốc Giáo Dục Tổng Liên Hội (Cơ sở 2 TLH)
       633, Đường 3/2 Quận 10. TP.HCM
       ĐT: 08.3957.5253 - 3957.5254 - 3957.5255
       Phòng Phân Phối Kinh Thánh và Văn Phẩm Cơ Đốc
       270 Lê Duẩn, Tp Đà Nẵng
       ĐT: 0511.3752.757- 098.513.1254
       Liên hệ đăng ký Văn phẩm Cơ Đốc:

       ĐT: 0918.218.152
       Email: timothynd@yahoo.com
       __________________


Chương Trình Bồi Linh Tại HT Phú Quý (10/07/2013)

       HTTLVN.ORG - Tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài đã ban cho buổi Lễ Khánh thành và Cung hiến nhà thờ Tin Lành Phú Quý, chương trình đã đem lại sự khích lệ lớn cho Hội Thánh và những người tham dự.
       Nối tiếp niềm vui đó, lúc 19g30 ngày 10/07/2013 tại Thánh đường Tin Lành Phú Quý Hội Thánh tổ chức một buổi nhóm đặc biệt để con dân Chúa được bồi linh qua Lời của Ngài. Diễn giả của là Mục sư Nguyễn Hữu Bình, Tổng Thủ quỹ TLH, hướng dẫn chương trình là Chấp sự Nguyễn Thanh Phong, Thư ký HT Phú Quý.
     Sau lời cầu nguyện khai lễ của Mục sư Thái Phước Trường, Hội trưởng HTTLVN (MN), Hội Thánh hòa lòng trong sự ngợi khen Chúa qua các bài Thánh ca. Hội Thánh được nghe Lời Chúa trong Ê-sai 50:4-11 qua sự giảng giải đầy mạnh mẽ, rỏ ràng và sống động của Mục sư Nguyễn Hữu Bình. Qua lời Chúa, mỗi người được nhắc nhớ: Hãy có đồng tâm chí với Đấng Mết-si-a; Hãy sống khiêm nhường; chịu vâng phục và học tập; Hãy sống trọn thành; chấp nhận mọi sỉ nhục và nghịch cảnh để bông trái Thánh Linh đươc kết quả trong mỗi đời sống con cái Chúa; Hãy sống với tinh thần đắc thắng, Chúa sẵn sàng ban sự đắc thắng cho kẻ sống giống như Ngài.
      Sau bài giảng, Hội Thánh hiệp một trong sự cầu nguyện với Mục sư Nguyễn Văn Dũng. Buổi nhóm bồi linh được kết thúc lúc 21g00, sau lời cầu nguyện chúc phước của Mục sư Bùi Phụng.
      Con cái Chúa chia tay nhau trong sự lưu luyến, những cảm xúc không thể diễn đạt bằng lời khi thấy những sự lạ lùng của Chúa bài tỏ qua Hội Thánh Chúa tại đây trong quá khứ và trong hiện tại. Hy vọng Chúa đã khởi sự làm việc lành, Ngài sẽ làm trọn mọi sự trong tương lai cho đến ngày tất cả được gặp nhau trong ngày Chúa đến.

TTV. Bình Thuận
TĐ. Nguyễn Đức Thắng


       Hình ảnh của chương trình


MS Thái Phước Trường, cầu nguyện khai lễ

Thư ký Nguyễn Thanh Phong, HDCT

Quang cảnh đêm bồi linh

Quang cảnh đêm bồi linh

Dự bồi linh phía bên ngoài nhà thờ

MS Nguyễn Hữu Bình, giảng lời Chúa



Kính mời Quí vị xem Video - Bồi Linh tại địa chỉ sau:
http://httlptbt.blogspot.com/2013/07/giong-ang-christ-ms-nguyen-huu-binh.html

Giới Thiệu Sách - Biết Đức Chúa Trời (14/07/2013)

       - Chúng ta được tạo dựng để làm gì? - Để biết Chúa!
       - Chúng ta đặt mục tiêu gì cho mình trong cuộc sống? - Biết Chúa!
       - Điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời, đem đến niềm vui, sự thỏa lòng hơn bất kỳ điều gì khác là gì? - Biết Chúa!
       - Nhưng có một sự thật quan trọng hơn, đem lại niềm an ủi vô biên cho chúng ta, đó không phải là tôi biết Chúa thôi mà là Chúa biết tôi nữa.
       Tất cả những câu hỏi trên được trả lời trong:
       Quyển “Biết Đức Chúa Trời” do Ban dịch thuật Viện Thánh Kinh Thần Học chuyển ngữ từ nguyên tác “KNOWING GOD” của tiến sĩ J.I. Packer vừa được phát hành, hiện có bán tại các Phòng Sách Cơ Đốc Giáo Dục trên toàn quốc với giá 50.000 VNĐ.

       Liên hệ mua sách:
       Văn phòng Cơ Đốc Giáo Dục
       155, Trần Hưng Đạo, Q1. TP.HCM
       ĐT: 08.66.59.45.88
       Email: uybancdgd@gmail.com
       Phòng sách Cơ Đốc Giáo Dục Tổng Liên Hội (Cơ sở 2 TLH)
       633, Đường 3/2 Quận 10. TP.HCM
       ĐT: 08.3957.5253 - 3957.5254 - 3957.5255
       Phòng Phân Phối Kinh Thánh và Văn Phẩm Cơ Đốc
       270 Lê Duẩn, Tp Đà Nẵng
       ĐT: 0511.3752.757- 098.513.1254
       Liên hệ đăng ký Văn phẩm Cơ Đốc:
       ĐT: 0918.218.152
       Email: timothynd@yahoo.com
       __________________


Lễ Khánh Thành Và Cung Hiến Nhà Thờ Tin Lành Phú Quý (10/07/2013)

      HTTLVN.ORG - Bởi ơn thương xót của Chúa, việc xây dựng cơ sở nhà Chúa của Chi Hội Tin Lành Phú Quý dù đã phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức cũng đã hoàn thành trong niềm vui vô hạn.
    Lễ Khánh thành và Cung hiến nhà thờ được bắt đầu lúc 8g30 ngày 10/07/2013.
       Chủ lễ: Mục sư Thái Phước Trường - Hội trưởng HTTLVN (MN),
       HDCT: Mục sư Nguyễn Công Nhựt - Quản nhiệm HTTL Phú Quý,
      Có sự hiện diện của: Mục sư Nguyễn Hữu Bình, Tổng thủ quỹ TLH; Mục sư Bùi Phụng, UV TLH; Mục sư Nguyễn Văn Dũng, BĐD Tin Lành tỉnh Bình Thuận. Cùng tôi con Chúa ở các Chi Hội đã về tham dự với gần 400 người.
      Buổi lễ cũng được đón tiếp các vị lãnh đạo các cơ quan, ban ngành của huyện đảo Phú Quý cùng đại diện lãnh đạo các tôn giáo khác.
     Sau phần thờ phượng trong linh quyền của Chúa, hội chúng được nghe lược sử Chi Hội Phú Quý đầy xúc động. Chi Hội Phú Quý được thành lập từ năm 1936, đã trải qua nhiều thăng trầm, có lúc tưởng chừng không thể trụ được trước bão tố của thời cuộc; nhưng cảm tạ Chúa Chi Hội Phú Quý đã tồn tại và ngôi nhà thờ mới rất khang trang được xây dựng hoàn thành trên đất đảo.
       Hội chúng thêm sự vui mừng và cảm động khi nghe báo cáo tài chánh trong việc xây dựng:
       - Tổng thu:                    2.037.042.000 VND
       - Tổng chi:                    2.085.246.000 VND
       - Chi Hội còn thiếu nợ:       48.204.000 VND
       Chi Hội cần sự tiếp trợ 100.000.000VND để trang trải nợ và đáp ứng các phần việc cần thiết:
      - Công việc còn dở dang: Cửa chính phải làm bằng inox giá 25.000.000 VND
       - Cần hệ thống âm thanh và một cây đàn để phục vụ thờ phượng Chúa.
      Để nâng đỡ đời sống tâm linh cho tất cả tôi con của Chúa. Mục sư Hội trưởng đã dùng Lời Chúa trong I Vua 9:1-9 giảng dạy với đề tài: XÂY CẤT ĐỀN THỜ CHO CHÚA.
       Mục sư Thái Phước Trường cũng đã thực hiện nghi thức cung hiến đền thờ với sự đáp ứng của toàn Ban Chấp sự Chi Hội Phú Quý.
       Sau phần tri ân các tiền nhân, ân nhân và lời cảm tạ của đại diện Chi Hội Phú Quý, buổi lễ được kết thúc lúc 11 giờ cùng ngày, sau lời chúc phước của Mục sư Hội trưởng.
      Cảm tạ Chúa, dầu giữa mùa sóng gió; nhưng vì lòng yêu Chúa, yêu Hội Thánh của Ngài, khá đông tôi con Chúa trong đất liền đã ra đảo Phú Quý để dự lễ. Chúa đã cho thời tiết rất tốt, Chúa cũng cảm động Chi Hội Phú Quý chung sức, chung lòng chịu bù lỗ hợp đồng tàu thuyền để tôi con Chúa được dễ dàng trong chi phí đi lại đồng thời đã tổ chức, sắp xếp đón tiếp phục vụ hết sức tận tình, chu đáo. Nguyện Chúa ban sức mới và phước hạnh trên Chi Hội của Ngài.

TTV. TĐ Nguyễn Đức Thắng



SƠ LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHI HỘI PHÚ QUÝ

       Bối cảnh hình thành Chi Hội Phú Quý:
       Ngày 28/03/1936, lần đầu tiên Tin Lành được rao truyền trên đảo Phú Quý do vị tiền phong - cố Chủ nhiệm Mục sư Ông Văn Trung, khi ông đang hầu việc Chúa tại Hội Thánh Phan Thiết. Người đầu tiên trên đảo cầu nguyện tin Chúa là ông Hương chủ Ngô Văn Lành 63 tuổi.
       Ngày 04/05/1956 Mục sư Lê Khắc Chấn và ba người khác là nghị viên Đào Trinh, nghị viên thanh niên Lê Khắc Hóa và cô Lê Thị Lành quyết định nhờ ơn Chúa ra hải đảo. Suốt hai tuần lễ giảng đạo, làm chứng, phát sách. Kết quả có 38 linh hồn cầu nguyện tin Chúa. Chúa đã cảm động gia quyến ông Ngô Lục tình nguyện dâng sở nhà ngói ba căn hai chái để làm nhà nguyện... Bên cạch đó Mục sư cũng cậy ơn Chúa bầu Ban Trị sự tạm thời. Đến 18/05/1956 Mục sư và những người cùng đi với ông từ giã mọi người rồi ra về. Chi Hội Tin Lành Phú Quý được ra đời từ đó.
      Vào năm 1962. Giáo sĩ Kenneth White cùng một số nhân viên của Thánh Kinh hội đến thăm anh em tín đồ trên đảo Phú Quý.
      Tháng 08/1965, Mục sư Trần Văn Tùng, chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Phan Thiết ra thăm tín đồ Phú Quý, ông đã dùng Lời Chúa để bồi linh cho Hội Thánh. Tạ ơn Chúa Ngài đã thấy rõ nhu cầu của Hội Thánh, nên vào tháng 08/1966 Địa hạt bổ nhiệm Truyền đạo Nguyễn Sang đến hầu việc Chúa với Hội Thánh.

GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

       1. Truyền đạo Nguyễn Sang (1966-1968)
      Sau khi Truyền đạo Nguyễn Sang, vị chủ tọa đầu tiên đến hầu việc Chúa với Hội Thánh Phú Quý, công việc Chúa được phát triển thật mạnh mẽ, rất nhiều người trở lại tin Chúa. Hội Thánh đã xây cất được một đền thờ rất khang trang, đẹp đẽ, trên một mãnh đất có diện tích 2.400 m2. Vào lúc 1 giờ trưa ngày 17/04/1968 một Lễ Cung hiến đền thờ đã được tổ chức trọng thể trong niềm vui sướng của con cái Chúa tại Phú Quý.
       2. Truyền đạo sinh Lư Hồng Sơn (1968-1970)
     Đến tháng 06/1968 Ban Trị sự Địa hạt Nam Trung phần bổ nhiệm thầy cô Truyền đạo sinh Lư Hồng Sơn đến thay cho Truyền đạo Nguyễn Sang. Trong sáu tháng đầu thầy cô để dành thì giờ thăm viếng chăm sóc, gây dựng phần tâm linh cho con cái Chúa trong Hội Thánh. Tháng 03/1969 Hội Thánh hiệp với tôi tớ Chúa cậy sức toàn năng của Ngài tổ chức Hội Đồng Bồi linh cho Hội Thánh và làm Lễ Báp-têm cho một số con cái Chúa. Diễn dã chính là Mục sư Trần Trọng Thục. Sau đó thì Truyền đạo Lư Hồng Sơn phải về học tốt nghiệp nên Địa hạt bổ Truyền đạo sinh Thái Phước Trường đến thay thế.
       3. Truyền đạo sinh Thái Phước Trường (1970-1972)
       Lúc bấy giờ nhà thờ, tư thất đã có rồi, Truyền đạo Thái Phước Trường tiếp tục hiệp với Hội Thánh trong công việc thăm viếng, chăm sóc, chứng đạo, gây dựng Hội Thánh và mở mang nước trời. Lúc nầy công việc Chúa ở đây đã tương đối ổn định. Dầu giai đoạn khó khăn ban đầu đã tạm thời qua đi, song công việc của Hội Thánh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
     Việc truyền giảng Tin Lành tại nhà thờ ngay lúc đầu đã không thực hiện được, chủ yếu là nỗ lực cá nhân chứng đạo của tôi con Chúa. Bên cạnh đó thầy cũng lạc quyên tài chánh và quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất nhà Chúa.
     Thấm thoát đã trôi qua hai năm đầy kỷ niệm, nhiều vui mừng và phước hạnh từ đảo Phú Quý (1970-1972). Thầy cô Truyền đạo Thái Phước Trường phải về Thần Học Viện để học chương trình tốt nghiệp. Địa hạt đã bổ nhiệm Truyền đạo sinh Lê Thành Hiệp đến thay thế.
       4. Truyền đạo sinh Lê Thành Hiệp (1972-1973)
      Một tháng sau khi Truyền đạo Thái Phước Trường rời khỏi Phú Quý, Truyền đạo sinh Lê Thành Hiệp đến Phú Quý để hầu việc Chúa với Hội Thánh. Sau một thời gian ngắn hầu việc Chúa với Hội Thánh, khoảng tháng 06/1973 Truyền đạo sinh Lê Thành Hiệp được Địa hạt chuyển về đất liền và Truyền đạo Nguyễn Nhất Thống được bổ nhiệm sau khi thầy đã tốt nghiệp tại Thần Học Viện Nha Trang vào khoảng trung tuần tháng 07/1973.
       5. Truyền đạo Nguyễn Nhất Thống  (1973-1977)
      Đặt chân đến Hội Thánh xa xôi, đơn sơ và nghèo khó: đầy tớ Chúa đã không nản lòng, thầy cô đã dốc lòng, dốc sức năng nỗ tích cực trong công tác gây dựng và mở mang Hội Thánh.
       Trong giai đoạn nầy cuộc nội chiến bùng nổ. Trước hoàn cảnh hỗn loạn kẻ ở, người rủ nhau đi lánh nạn, áp đảo tinh thần của con cái Chúa, riêng thầy chủ tọa với tinh thần sẵn sàng đối diện với bao khó khăn trong lúc nầy để ở lại với Hội Thánh.
     Thời gian trôi qua đến ngày 31/12/1975 Truyền đạo Nguyễn Nhất Thống được Địa hạt mời về phong chức và ông được Tấn phong Mục sư tại Thần Học Viện Nha Trang. Sau đó ông trở về nhiệm sở cũ với chức vụ mới. Hơn một năm sau, vào đầu xuân 1977, Mục sư Phạm Xuân Tín - Chủ nhiệm Địa hạt Nam Trung bộ bổ nhiệm Mục sư Thống về Mũi Né.

GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN XÁO TRỘN

      Sau khi Mục sư Nguyễn Nhất Thống rời khỏi Phú Quý, Hội Thánh bắt đầu gặp càng nhiều khó khăn hơn. Đầy tớ Chúa không đổi đến được, thiếu chủ tọa Hội Thánh trở nên bơ vơ như chiên không có người chăn, mọi sinh hoạt dường như bế tắc, bên cạnh đó áp lực từ mọi phía đè nặng trên con cái Chúa. Dầu vậy tạ ơn Chúa vẫn còn một số tín hữu trung tín trọn thành với Ngài.
      Đến ngày 11/06/1978, Chính quyền Phú Quý đã mời Ban Trị sự đến cơ quan nhà nước và yêu cầu dâng cơ sở nhà thờ cho nhà nước quản lý. Sau đó ngôi thánh đường đã bị tháo dỡ. Con cái Chúa tại đây vốn đang bế tắt, giờ đây lại càng tuyệt vọng hơn, khung cảnh ngôi nhà thờ thân quen mà họ đã từng sinh hoạt mỗi Chúa nhật giờ đây không còn nữa. Có lẽ đây là nỗi đau, là sự mất mát lớn nhất của người tín hữu tại đây mà họ phải gánh chịu. Bẵng đi một thời gian khá dài (16 năm) cho đến ngày 01/05/1993 Chúa đã cảm động Truyền đạo Nguyễn Hoài Trân và thầy đã ra thăm Hội Thánh Phú Quý, từ đây Hội Thánh Chúa đã chuyển sang một giai đoạn mới.

GIAI ĐOẠN ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN

       Sau khi Truyền đạo Nguyễn Hoài Trân về đất liền, ông đã trình bày một cách rõ ràng công việc Chúa tại Phú Quý với Ban Hiệp nguyện tỉnh Bình Thuận. Sau đó Ban Hiệp nguyện do Mục sư Lê Khắc Hóa làm trưởng ban đã quyết định đưa Truyền đạo tình nguyện Phạm Xuân Nghĩa ra để củng cố và gây dựng lại Hội Thánh.
       6. Truyền đạo tình nguyện Phạm Xuân Nghĩa (1993-1995)
       Vào Khoảng trung tuần tháng 11/1993 Truyền đạo Phạm Xuân Nghĩa đã ra hầu việc Chúa lại Hội Thánh Phú Quý. Trong hoàn cảnh không có nhà thờ đầy tớ Chúa phải ở tạm nhà ông Ngô Xiểu, tổng số tín hữu lớn nhỏ khoảng 40 người. Thời gian cứ tiếp tục trôi qua cho đến Lễ Giáng sinh. Đây là Lễ Giáng sinh đầu tiên được tổ chức long trọng kể từ sau năm 1976. Trong niềm hân hoan của đàn chiên bơ vơ nay đã có người chăn. Đêm 24/12/1993 là đêm bắt đầu một bước ngoặc mới cho Hội Thánh.
       Sau hai năm Hầu việc Chúa tại Hội Thánh Phú Quý, Ban Đại diện Tin Lành tỉnh Bình Thuận đưa Truyền đạo Phạm Xuân Nghĩa trở về đất liền và bổ nhiệm Truyền đạo tình nguyện Lê Văn Tám đến thay.
       7. Truyền đạo tình nguyện Lê Văn Tám (1995-1998)
      Đầu năm 1995, Truyền đạo Lê Văn Tám tiếp tục tiếp nối chức vụ thầy Nghĩa tại Phú Quý. Trong những ngày đầu hầu việc Chúa tại Hội Thánh, Truyền đạo Lê Văn Tám đã cũng cố lại sự nhóm họp, thờ phượng Chúa của Hội Thánh. Tháng 05/1995 điểm nhóm từ mái hiên nhà ông Ngô Xiểu được dời về căn nhà chính của ông Châu Đạt.
      Thời gian trôi qua với bao kỷ niệm, Truyền đạo Lê Văn Tám phải trở về đất liền để lo học chương trình tốt nghiệp. Đầu năm 1998, thầy bàn giao Hội Thánh lại cho Ban Trị sự. Hai tháng sau, Truyền đạo tình nguyện Bùi Tấn Lực được Ban hiệp nguyện tỉnh Bình Thuận đưa ra thay thế cho Truyền đạo tình nguyện Lê Văn Tám.
       8. Truyền đạo tình nguyện Bùi Tấn Lực (1998-2001)
      Tháng 06/1998, Truyền đạo Bùi Tấn Lực đến Hội Thánh Phú Quý, lúc bấy giờ số tín đồ ngày càng đông thầy và BTS họp lại quyết định xây dựng một ngôi đền thờ tạm trên mảnh đất của nhà ông Châu Đạt. Năm 1999, Hội Thánh đã có một ngôi đền thờ tạm khang trang để thờ phượng Chúa, thầy đã tận tình thăm viếng, chăm sóc và gây dựng Hội Thánh. 04 năm sau, vào khoảng tháng 08/2001 Ban Đại diện chuyển thầy vào đất liền.
     Sau khi thầy Lực chuyển về đất liền thì Ban Hiệp nguyện bổ nhiệm thầy Nguyễn Thế Hồng đến để thay thế.
       9. Truyền đạo tình nguyện Nguyễn Thế Hồng (2001-2002)
       Tháng 10/2001 Truyền đạo Nguyễn Thế Hồng đến Phú Quý. Lúc nầy mùa đông lại về, Giáng sinh lại đến thầy bắt đầu lo cho Lễ Giáng sinh và Chúa đã ban phước một đêm Giáng sinh đầy phước hạnh, thời gian trôi qua đến khoảng tháng 06/2002 thầy gặp nhiều sự khó khăn với Chính quyền địa phương sau đó Ban Đại diện đã rút thầy về đất liền.
       Lúc bấy giờ Hội Thánh không có người chăn, Ban Trị sự Hội Thánh đã cậy ơn Chúa cùng nhau thăm viếng, chăm sóc và học Lời Chúa với Hội Thánh. Sau đó Ban Đại diện mời Mục sư Nguyễn Hoài Trân, kiêm lo Hội Thánh Phú Quý nên thỉnh thoảng Mục sư có ra thăm Hội Thánh và chia sẻ Lời Chúa. Hội Thánh cứ tiếp tục cầu nguyện và xin Chúa sớm cho có môt đầy tớ Chúa đến với Hội Thánh, lòng khao khát đã được Chúa nhậm lời. Vào khoảng tháng 12/2006, Ban Trị sự Tổng Liên Hội đã Bổ nhiệm MSNC Nguyễn Công Nhựt đến với Hội Thánh sau 04 năm không có quản nhiệm.
       10. Mục sư nhiệm chức Nguyễn Công Nhựt (2007-nay)
     Sau khi tốt nghiệp Viện Thánh Kinh Thần Học, tháng 02/2007, MSNC Nguyễn Công Nhựt ra hầu việc Chúa với Hội Thánh. Lúc nầy Hội Thánh chưa có cơ sở riêng, nhà nguyện đã xuống cấp, Thầy Nhựt cậy ơn Chúa hiệp với Ban Trị sự lần hồi gây dựng Hội Thánh, phát triển các ban ngành; bên cạnh đó cũng vừa chuẩn bị mọi thủ tục để lo cho Hội Thánh có một lô đất và tiến hành xây dựng cơ sở nhà Chúa.
      Cảm ơn Chúa vì Ngài đã mở đường cho Hội Thánh nên ngày 25/09/2009 nhà nước cấp chủ quyền đất cho Hội Thánh. Ngay sau đó ngày 30/09/2009, Sở Xây dựng tỉnh Bình Thuận đã cấp giấy phép để Hội Thánh Phú Quý được xây dựng nhà thờ và các công trình phụ.
      Ngày 03/03/2010 Hội Thánh tổ chức Lễ Khởi công xây dựng với sự vui mừng của tôi con Chúa khắp nơi. Vì không đủ tài chánh xây dựng nhà thờ nên Hội Thánh Phú Quý quyết định xây dựng khối Cơ Đốc Giáo Dục trước để có nơi nhóm tạm cho Hội Thánh trong khi chờ đợi xây dựng nhà thờ mới. Tạ ơn Chúa vì sau những ngày tháng Hội Thánh Phú Quý đã đóng góp công, sức, tài chánh… cho việc xây dựng, đến đầu tháng 08/2010 Hội Thánh đã chuyển điểm nhóm từ nơi nhà ông Châu Đạt về cơ sở Cơ Đốc Giáo Dục của Hội Thánh để thờ phượng Chúa. Thầy Nhựt cũng đưa gia đình về đây để tiếp tục hầu việc Chúa với Hội Thánh. Sau khi xây dựng Cơ sở Cơ Đốc Giáo Dục, Hội Thánh tiếp tục xây dựng phần móng nhà thờ, nhưng vì hết kinh phí nên việc xây dựng tạm ngưng.
       Đầu năm 2012 Hội Thánh tiếp tục xây dựng nhà thờ và công trình phụ. Công trình đã hoàn tất ngày 24/06/2013 trong sự ban phước của Chúa.
       Riêng Thầy Nhựt trong giai đoạn nầy được Tổng Liên Hội Tấn phong Mục sư ngày 23/10/2012. Ông tiếp tục hầu việc Chúa với Hội Thánh Phú Quý với chức vụ mới cho đến ngày nay.


       Một số hình ảnh ghi nhận:


Nhà thờ Tin Lành Phú Quý

Mục sư Nguyễn Công Nhựt hướng dẫn chương trình

Mục sư Nguyễn Hữu Bình cầu nguyện khai lễ

Ban hát lễ HT Phú Quý tôn vinh Chúa

Tôn vinh Chúa

Bên trong nhà thờ

Bên ngoài nhà thờ

Mục sư Hội trưởng chia sẻ Lời Chúa

Mục sư Bùi Phụng cầu nguyện đáp ứng Lời Chúa

Nghi thức cung hiến


Kính mời Quí vị xem Video
Lễ khánh thành và cung hiến đền thờ tại địa chỉ sau:
http://httlptbt.blogspot.com/2013/07/le-cung-hien-nha-tho-tin-lanh-phu-quy_13.html